Tính chung trong cả 4 tháng đầu năm 2019 cả nước xuất khẩu 2,33 triệu tấn dây thép buộc , thu về 1,5 tỷ USD, tăng 22,2% về khối lượng và tăng 6,8% về kim ngạch so với cùng kỳ năm trước.
Giá xuất khẩu dây thép buộc trong tháng 4/2019 đạt 656,6 USD/tấn, giảm 0,6% so với tháng 3/2019 và giảm 14,5% so với tháng 4/2018. Tính giá trung bình cả 4 tháng đầu năm 2019 đạt 644,8 USD/tấn, giảm 12,6% so với cùng kỳ.
dây thép buộc xuất khẩu sang Campuchia - thị trường tiêu thụ nhiều nhất các loại sắt thép của Việt Nam tăng mạnh 55,7% về lượng và tăng 45,8% về kim ngạch so với cùng kỳ, đạt 582.578 tấn, tương đương 347,38 triệu USD, chiếm 25% trong tổng lượng sắt thép xuất khẩu của cả nước và chiếm 23% trong tổng kim ngạch. Tuy nhiên, giá xuất khẩu sang thị trường này giảm 6,4%, đạt 596,3 USD/tấn.
Xuất khẩu sang Indonesia – thị trường lớn thứ 2 đạt 281.655 tấn, tương đương 188,1 triệu USD, chiếm trên 12% trong tổng lượng và tổng kim ngạch, tăng 6,5% về lượng nhưng giảm 9,6% về kim ngạch so với cùng kỳ.
Tiếp sau đó là thị trường Mỹ đạt 188.362 tấn, tương đương 150,99 triệu USD, giá 801,6 USD/tấn, giảm các mức tương ứng 35%, 38% và 4,6% so với cùng kỳ. Sắt thép xuất sang Mỹ chiếm 8,1% trong tổng lượng và chiếm 10% trong tổng kim ngạch xuất khẩu dây thép buộc của cả nước.
Xuất khẩu sang thị trường Malaysia đạt 243.573 tấn, tương đương 148,35 triệu USD, chiếm 10% trong tổng lượng và tổng kim ngạch, tăng 2,1% về lượng nhưng giảm 6,1% về kim ngạch so với cùng kỳ. Giá xuất khẩu giảm 8%, đạt 609 USD/tấn.
Nhìn chung, trong 4 tháng đầu năm năm nay xuất khẩu dây thép buộc sang thị trường phần lớn các thị trường bị sụt giảm cả về lượng và kim ngạch so với 4 tháng đầu năm trước; trong đó giảm mạnh ở một số thị trường như: Đức giảm 94,7% về lượng và giảm 96,9% về kim ngạch, đạt 52 tấn, tương đương 0,07 triệu USD; Anh giảm 44,8% về lượng và giảm 49,6% về kim ngạch, đạt 15.352 tấn, tương đương 10,46 triệu USD; Bỉ giảm 41,8% về lượng và giảm 49% về kim ngạch, đạt 71.757 tấn, tương đương 47,34 triệu USD.
Tuy nhiên, xuất khẩu dây thép buộctăng mạnh ở một số thị trường như: Saudi Arabia 281% về lượng và tăng 310,5% về kim ngạch, đạt 4.532 tấn, tương đương 3,03 triệu USD; Pakistan tăng 230% về lượng và tăng 169% về kim ngạch, đạt 30.461 tấn, tương đương 14,71 triệu USD; Trung Quốc tăng 849,4% về lượng và tăng 263,6% về kim ngạch, đạt 33.067 tấn, tương đương 17,99 triệu USD; Philippines tăng 210% về lượng và tăng 154% về kim ngạch, đạt 121.947 tấn, tương đương 60,26 triệu USD.